LGT :
17 giờ ngày 29-04-1975, cuộc "thương thuyết" giữa chính phủ đầy ngây
thơ và ảo tưởng mệnh danh "thành phần thứ ba" với quân CS VN đã hoàn
toàn tan vỡ. Quân đội CS tập trung hoả lực và cơ giới tiến thẳng vào thủ
đô Sài Gòn. 10:30 sáng ngày 30-04-1975, với danh nghĩa Tổng Thống, cựu
Tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Trước đó không đầy 24 giờ, Dương
Văn Minh ký cho Nguyễn Hữu Chung một Sự vụ lệnh đưa chiếc tàu VN Thương
tín đi, và một Sự vụ lệnh cho Nguyễn Hữu Chung đến Ngân hàng Quốc gia
VN đưa một số vàng tồn trữ ở Ngân hàng này xuống tàu VN Thương tín để
khỏi lọt vào tay CS. Nguyễn Hữu Chung đến Ngân hàng Quốc gia VN định lấy
vàng đem đi, Tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo và Thống đốc Lê Quang Uyển nhất định không chịu trao, vì muốn giữ lại trao cho VC để lấy điểm.
Bàn
cãi nhau trong vòng 1 tiếng đồng hồ, Nguyễn Hữu Chung không thuyết phục
được Nguyễn Văn Hảo và Lê Quang Uyển, nên Nguyễn Hữu Chung phải lật đật
xuống tàu VN Thương tín để ra đi.
Tàu VN Thương tín ra đến sông
Lòng Tảo bị Cộng quân nã B-40 vào hông tàu, làm thủng một mảng lớn. Nhà
văn Chu Tử, Chủ nhiệm Nhật báo Sống ở Sàigòn đã bị đạn B-40 của CS VN
giết chết trên tàu VN Thương tín. Vậy mà khi cập bến Guam, phần do nội
tuyến VC tuyên truyền, phần vì ly biệt người thân, 1652 người đã chấp
nhận lên tàu VN Thương tín quay trở lại VN, vào tháng 10-1975, dưới sự
điều khiển của Trung tá Hải quân Trần Đình Trụ.
Sau khi cập bến,
tất cả những người trở về đã bị cầm tù ngoại trừ một bé trai 7 tuổi. Cựu
Trung tá Trụ đã bị tù 13 năm. Cuối cùng ông được trả tự do và ông cùng
với gia đình đã được định cư tại Hoa Kỳ qua diện HO năm 1990.
Kể
từ khi CS chiếm đóng miền Nam, nhiều người đã hậm hực tiếc rẻ không chạy
thoát trước ngày 30-04, ra nước ngoài. Vì thế, mọi người đã sững sờ khi
nghe tin hơn 1600 người "đòi về" với chế độ CS chứ không thèm ở trên xứ
tự do!
Người Mỹ trên đảo lúc đó đã tìm đủ mọi cách để dỗ dành,
chiều chuộng họ để họ ở lại nhưng không được. Họ nhất quyết tin tưởng
nếu "thành tâm" về với CS như vậy, họ sẽ được CS đãi ngộ tử tế và coi
như anh hùng ! Lúc đó, người nào cũng hy vọng là sự trở về của họ sẽ
được CS thích thú chấp nhận và đãi ngộ tử tế. Người Mỹ thì biết những
người trở về sẽ vô cùng cực khổ vì thiếu thốn nên đã trang bị cho họ đủ
thứ mùng mền, chăn gối, lương thực ê hề. Có người đã phải nói người Mỹ
cho nhiều đồ như cho con gái về nhà chồng!
Nào ngờ đâu khi tàu VN
Thương tín cập bến Nha Trang, Việt Cộng đã cho lột sạch sẽ quần áo và
của cải trước khi đưa tất cả vào trại giam. Mỗi người phải trút bỏ hết
quần áo và được cấp phát 2 bộ quần áo cũ hay quần áo tù. CS làm như vậy
để tiện lục soát trong quần áo và tịch thu toàn bộ của cải, kể cả những
bộ quần áo của người tỵ nạn.
Kết quả là mỗi người được CS đón
bằng cái còng số 8, bất kể đàn bà trẻ con ! Tất cả phải lột sạch quần áo
để công an khám người, khám tóc tìm cái gì có thể giấu được. Quần áo bị
tịch thu để công an có thời giờ lục soát kỹ càng và lấy luôn. Trong số
những người về có tới 400 sĩ quan cảnh sát, và mấy trăm sĩ quan quân
đội. Đàn bà và trẻ con bị giam tối thiểu 9 tháng, những người khác từ 5
năm trở lên, tuỳ theo thành phần, lý lịch. Một số lớn bị tình nghi do
CIA "cài" về để làm gián điệp, tình báo thì còn bị giam lâu hơn!
Thân
nhân gia đình của những sĩ quan trở về đã thất vọng và nguyền rủa chồng
họ không tiếc lời. Báo hại những người vợ nghèo nàn này còn phải lo
tiền bạc đồ ăn đi thăm nuôi. Nhiều bà đã quá giận bỏ chồng khiến cho gia
đình tan nát. Các "nạn nhân" chỉ còn cúi đầu sống trong sự tiếc hận,
tủi hổ với lương tâm và với mọi người, và tiếc nuối một dịp may đã mất
đi vĩnh viễn.
Nhưng trong số những người trở về VN trên tàu VN
Thương tín cũng có nhiều hoàn cảnh thương tâm. Thí dụ như nhạc sĩ Trường
Sa. Trả lời phỏng vấn của Thy Nga, ông cho biết:
Khi đó, tôi là
Chỉ huy trưởng đoàn hộ tống công-voa các thương thuyền của các nước đi
tiếp tế cho chính quyền Lon Nol tại Campuchia. Ngày 29 thì tôi ở Vàm An
Long trên sông Cửu Long. Khi tôi liên lạc với các cấp chỉ huy của tôi
thì người ta đi hết rồi, thành ra đêm hôm đó, tôi dùng một chiếc tàu nhỏ
trở về Sài Gòn nhưng không vô được bên trong nữa. Và từ đó, tôi gặp
chiến hạm từ Sài Gòn đi ra, tôi lên chiến hạm, đi tới đảo Guam luôn. Khi
lên tàu, tôi tìm khắp trên các chiến hạm đang di tản, không có gia đình
tôi. Không liên lạc được với gia đình, vợ con tôi ở Sài Gòn. Tôi không
bỏ rơi gia đình trong cảnh khó khăn như thế. Khi đến đảo Guam thì tôi
xin Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc can thiệp cho tôi trở về VN. Hoàn cảnh
nào tôi cũng chấp nhận hết. Vì vậy, tôi theo tàu VN Thương tín trở về
VN. Khi tàu tới Nha Trang, VC bắt tôi lên Ty Cảnh sát cũ tại Nha Trang ở
đó 2 tháng, rồi chuyển ra trại A 20 Phú Khánh. Một thời gian ngắn sau
thì chuyển ra Bắc, trại Nghệ Tĩnh đến năm 1984, mất cả thảy 9 năm ! Chỉ
vì đã ra đi, rồi lại trở về. Năm 1986 thì tôi vượt biên, bị bắt. Từ cửa
biển vào Mỹ Tho, dọc đường tôi bị đánh dữ lắm. Họ giam tôi 45 ngày trong
xà-lim tối, sau đó, họ cho ra lao động. Hai năm sau thì thả tôi về.
Đến
tháng 04-1989, tôi tiếp tục đi nữa. Lần này thành công, tôi cùng 3 con
đến Pulau Bidong, phải chờ 28 tháng, mới được Canada nhận vào.
Giống
như nhạc sĩ Trường Sa, ông M Ngọc Phan cũng vì vợ con còn kẹt lại ở VN,
nên đã từ đảo Guam trở lại VN trên tàu VN Thương tín để rồi trải qua 6
năm tù đầy trong “trại cải tạo” của CS và 12 năm sau, ông và gia đình
mới vượt biên thành công, đến được Hoa Kỳ. Sau đây là đoạn hồi ký của ông.
Vào
đầu tháng 04-1975, căn cứ Hải quân Phú Quốc cấm trại 100 % vì tình hình
đất nước càng lúc càng mịt mờ, tôi đưa vợ con lên tàu vào đất liền để
rảnh tay lo nhiệm vụ của một Sĩ quan luôn luôn chấp hành lệnh cấp trên.
Bé Dương con tôi mới hơn 2 tuổi và vợ lại gần sanh, nên tôi nghĩ không
gì tốt và an toàn hơn là gửi cả về bên ngoại ở Rạch Giá, để có người
giúp đỡ lúc sanh nở.
Ngày 29-04 thì tình hình đã rối beng lên, tất
cả tàu trong căn cứ được lệnh nhổ neo, tôi đi theo Tuần duyên hạm HQ
600. Mặc dầu đã cố gắng liên lạc về Rạch Giá với gia đình, nhưng làm sao
kịp được nữa!
Lệnh đầu hàng của D. Văn Minh như nhát gươm cuối
cùng cắt đứt hy vọng của mọi người. Ngồi trên boong tàu nhìn về quê
hương mà nước mắt tôi chan hoà. Thôi thế là hết! Thế là tán gia vong
quốc. Trước đấy hơn một tháng, đã có biết bao công chức, lính tráng di
tản về hòn đảo cuối vùng đất nước này, nên HQ cố gắng hết sức để đưa họ
ra khơi, mà lúc này cũng chưa ai biết sẽ đi về đâu.
Tàu tôi đã
chuyển rất nhiều chuyến ra Tuần dương hạm. Tôi chứng kiến bao cảnh
thương tâm vợ chồng con cái la khóc vì lạc nhau, thảm cảnh tai nạn khi
chuyển lên tàu lớn, có người rớt xuống biển mà không thể nào vớt được.
Trong
hoàn cảnh hỗn quan hỗn quân ấy, tôi đã hết lòng giúp đỡ mọi người,
những ghe nhỏ từ đảo Phú Quốc hay từ Rạch Giá chạy ra chở đầy người,
nhưng vợ con mình thì lại không thấy đâu!
Hạm trưởng ra lệnh chạy
về hướng Singapore, ba ngày sau tàu cặp bến thì tôi chuyển qua chiếc HQ
229 để đi Subic Bay, Philippin. Nơi đây tôi đã đứng nghiêm, đau lòng
tham dự lễ hạ quốc kỳ VNCH trên con tàu, tháo cặp lon trên vai áo bạc
màu, làm thủ tục ở đây 20 ngày rồi lên máy bay qua đảo Guam. Suốt những
ngày ở trại Asan, tôi thẫn thờ như kẻ không hồn, lạc lõng giữa những
người đồng số phận lưu vong. Chỉ có một số người may mắn đầy đủ gia
đình, họ mau mắn tiến hành thủ tục định cư càng sớm càng tốt.
Nhìn
cảnh gia đình họ mà tôi thèm thuồng và tủi cho thân phận mình. Tuy
nhiên tôi vẫn lo làm giấy tờ để đi định cư mà lòng thì ngao ngán. Rồi
đây trên xứ người, trơ trọi một thân một mình, không cha mẹ anh em, vợ
con thì mình sẽ sống ra sao. Càng nghĩ càng buồn.
Đêm đêm tôi ra
ngồi sát bãi biển, mắt đăm đắm nhìn về hướng quê nhà, nơi có người cha
già yếu, vợ dại con thơ đang lo lắng không biết tôi sống chết ra sao.
Tôi nhớ đến miền quê nghèo mà mình đã sống từ nhỏ, có bà con lối xóm đầy
ấp tình người, luôn luôn thuận hoà và bảo bọc nhau trong mọi hoàn cảnh
ngặt nghèo. Nhất là bây giờ không biết vợ tôi sanh nở có mẹ tròn con
vuông hay không. Mình đi rồi thì mẹ con nó lấy gì sanh sống và tồn tại
đây.
Tôi nhớ tới cuộc di cư mà cha mẹ mình đã trải qua 20 năm về
trước mà lòng não nề. Trong một nước mà còn không thể gặp nhau, huống hồ
bây giờ tôi ra nước ngoài thì biết bao giờ gặp lại. Đến cuối tháng Sáu,
trong trại có tin đồn là nếu ai muốn về VN thì chính phủ Mỹ sẽ cho về.
Tôi nghe một cách lơ là vì cho rằng khó có chuyện đó xẩy ra, nhưng càng
lúc tin đồn càng lớn mạnh, một người quen nói với tôi là rất nhiều người
đã ghi danh để trở về.
Cùng lúc ấy, có một nhóm khá đông hàng
ngày tụ tập trước Văn phòng Đại diện, biểu tình yêu sách "được mau trở
về VN vì nước nhà đã độc lập, đã hết chiến tranh rồi. Hoà bình đến thì
nước nhà cần bàn tay của mọi công dân". Cho đến lúc này, việc định cư
của tôi vẫn còn mù mờ, không có tin tức gì cả. Tinh thần tôi dao động,
khủng hoảng, đắn đo không biết tính sao.
Nếu đi định cư thì chắc
chắn là phần vật chất thì no ấm rồi đó, nhưng về tinh thần thì có gì bù
đắp được, khi không có gia đình và một người thân nào ở bên cạnh. Nhưng
trở về thì sẽ ra sao? Họ có bắt bớ tra tấn tù đày gì không? Tôi trằn
trọc thao thức nhiều đêm để quyết định cho hướng đi của cuộc đời mình.
Người
xưa đã nói : Thà chết một đống, còn hơn sống một người. Cả gia đình tôi
còn ở miền quê hương ấy, tôi lại là con trai cả, có nhiệm vụ với nguyên
một đại gia đình và với vợ con. Nhất định mình phải trở về, không lẽ
bây giờ họ thắng rồi, mà lại "Đánh kẻ chạy lại". Cùng lắm là sau vài
tuần điều tra, thấy chẳng có gì là họ cho về với gia đình chứ cơm đâu mà
nuôi mãi.
Đọc lịch sử thế giới ai cũng thấy rằng người thắng trận
bao giờ cũng mã thượng, như cuộc chiến Nam Bắc ở Hoa Kỳ 1861-1865, Bắc
quân thắng trận nhưng lính Nam quân vẫn an lành trở về nhà, cả hai miền
đều chung sức làm nên nước Mỹ ngày càng cường thịnh. Rồi như nước Nhật,
nước Đức kia, thua trận thê thảm năm 1945 mà được cựu thù Hoa Kỳ giúp
đỡ, nên chỉ chừng một thập niên sau là trở thành những cường quốc ngay.
VN chắc hẳn cũng thấy ra điều đó. Nhất định là mình phải trở về. Nghĩ
vậy nên khi tôi bước lên tàu VNTT mà lòng khấp khởi.
Sau hai tuần
hải hành, tàu VN Thương tín đã vào hải phận Vũng Tàu. Hôm đó là ngày
29-09-1975 có trên dưới 1450 hành khách, với rất nhiều lương thực và
hành lý do chính Phủ Hoa kỳ trao tặng gồm chăn màn, quần áo và thuốc men
như những món quà của người đi xa mang về cho gia đình... Không biết
tại sao đã liên lạc từ trước rồi, mà mãi ngày hôm sau mới thấy hai chiếc
tàu Hải quân bây giờ trương cờ đỏ sao vàng ra đậu cách đó khoảng 200 m,
rồi họ bắc ống dòm nhìn sang chăm chú. Mấy tiếng đồng hồ sau mới ra
hiệu hướng dẫn chiếc VNTT chạy ngược ra phía miền Trung.
Bây giờ
thì nỗi lo lắng đã hiện lên nét mặt nhiều người, nhưng ai cũng nán lòng
chờ đợi vì chưa biết rồi ra sẽ như thế nào. Ngày hôm sau thì tàu cập bến
Nha Trang. Trung tâm Huấn luyện Hải quân nơi tôi theo học còn đây, mà
sao phố phường im vắng như thành phố chết ?
Tất cả mọi người lớn
bé đều bị dồn lên xe bít bùng chở về Trung tâm Thẩm vấn của Quân đoàn II
cũ. Lúc này thì ai cũng lờ mờ nhận thấy rằng khốn nạn đến nơi rồi! Mọi
người phải trút bỏ hết quần áo, bị khám xét rất nhiều lần từ đầu đến
chân, được phát cho hai bộ đồ lính rộng thùng thình, một chiếc chiếu
rộng 8 tấc rồi dẫn đi nhốt vào những căn barrack.
Nhớ mới đây,
thực phẩm ở trại Mỹ ê hề thịt trứng, nho, cam mà bây giờ chỉ có cá mối
ươn kho mặn là chính, thỉnh thoảng mới được ca canh nấu bằng rau muống
hoặc rau cải già. Mỗi ngày một nhóm phải đi khai báo lý lịch trên Phòng
Chấp pháp: trước đây làm chức vụ gì trong Ngụy quyền, hoạt động ra sao,
trong bao nhiêu năm... Mỗi người được phát một số tờ sơ yếu lý lịch và
ít tờ giấy trắng để viết lời khai. Cán bộ thì ông nào ông nấy mặt lạnh
như tiền, cặp mắt thò lỏ ra như mắt chuột và hàm răng thuốc lào thì cứ
vẩu tướng mãi lên, họ luôn luôn nói lải nhải câu: "Nếu các anh thành
thật khai báo, thì đảng và nhà nước sẽ khoan hồng cho về".
Bây giờ thì cái câu ông Thiệu nói, nó hiển hiện lên trí óc mọi người: “Đừng nghe những gì CS nói mà hãy nhìn kỹ những gì CS làm”. Về sau này ai cũng hiểu rằng đám cán bộ này thuộc Cục Tình náo Nước ngoài thuộc Bộ Công an.
Suốt
2 tháng trời, tinh thần mọi người trở về đều bị khủng bố, ép cung, còn
về vật chất thì quá thiếu thốn, cực khổ. Những giòng nước mắt hối hận
đêm đêm ứa ra mà không ai dám than với ai, chỉ thầm đấm ngực ăn năn “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”.
Họ
chụp mũ mọi người là CIA, Mỹ gài lại VN phá hoại, chống phá nhà nước.
Không biết bao nhiêu lần tôi phải giải thích tại sao tôi lại trở về. Tôi
kể về nỗi nhớ nước thương nhà, lưu luyến vợ con và gia đình, nhưng
những con người không có trái tim đó họ không chịu hiểu. Điều phiền muộn
nhất cho mọi người là về đến nước nhà rồi mà không ai được liên lạc với
gia đình. Chúng tôi cũng biết chắc rằng người thân cũng lo lắng rất
nhiều vì mình biệt vô âm tín.
Vài tháng sau thì đàn bà con nít đã
được thả ra, nhưng hơn 500 Sĩ quan, Cảnh sát hoặc những người làm bên
ngành An ninh bị tách riêng ra. Đến đầu năm 1976 thì tôi bị chuyển đến
trại A-30 Xuân Phước ở gần Tuy Hoà để "cải tạo lao động" với câu quen
thuộc cũ : "Nếu các anh cải tạo tốt, lao động tốt, học tập tốt thì đảng
và nhà nước sẽ khoan hồng cho các anh về". Chẳng còn ai tin những lời
hứa hẹn này và câu sau của ông Thiệu lại vang vọng: "Hãy nhìn kỹ những
gì VC chúng làm".
Tôi nghe nói những người từ cấp Đại úy trở lên
đã bị chở ra ngoài Bắc, riêng những người thuộc Ban Đại diện tàu này thì
đã bị đưa về khám Chí Hoà từ những ngày đầu. Chắc chắn là họ thê thảm
rồi chứ không được tưởng thưởng vì đã đem về cho VC một con tàu đâu.
Thời
gian tù đày càng ngày càng vô vọng vì tù mà không có án, thân thể hao
mòn vì thiếu thốn. Sự đói khát, kiểm thảo, phê bình, lao khổ trong tù
thì đã có quá nhiều người nói đến, kể ra chỉ rườm lời. Tôi xuống tinh
thần rồi đổ bệnh tưởng không qua khỏi.
Sự hối hận này so với những
người khác cũng chưa thấm vào đâu, nhất là những người vì ngây thơ, đã
chia tay với gia đình khi ở bên trại mà trở về một mình. Còn những ông
khi biểu tình đòi về VN to mồm thế nào, thì sự hối hận càng tăng thêm độ
nặng chừng đó. Họ không dám nhìn ánh mắt những bạn đồng tù. Rồi cũng
không ai hiểu tại sao đội của tôi lại được tuyên dương là có thành tích
lao động nên được cho phép viết thư về nhà. Dĩ nhiên với nội dung là ca
tụng đảng và nhà nước chăm sóc cho mình rất chu đáo.
Mấy tháng sau
thì vợ và đứa em trai ra thăm, nhưng tôi vì không đi lao động nổi nên
bị phạt không cho gặp mặt gia đình, cũng không được nhận quà thăm nuôi!
Sau này tôi mới biết được mùa nước năm ấy, quê tôi bị nước lũ tràn về,
lúa chưa chín đã bị chìm trong làn nước lụt, mất trắng. Thế mà gia đình
chỉ còn con heo độc nhất đành phải bán đi mà ra thăm nuôi tôi.
Thời
điểm ấy đi đâu cũng phải trình báo, xe cộ khó khăn, nếu không phải là
công nhân viên, cán bộ thì chỉ còn có nước mua vé chợ đen mà thôi. Từ
miền quê Rạch Giá ra đến Tuy Hoà biết bao vất vả tốn hao, thế mà không
được nhìn mặt nhau cho dù là qua một hàng rào kẽm gai.
Rồi qua một
năm dài đằng đẵng nữa, tôi mới được phép thăm nuôi. Lần này vợ tôi bồng
thằng Quốc đi theo. Hai người ngồi 2 bên mép bàn, tên quản giáo với ánh
mắt cú vọ ngồi đầu bàn. Cả hai đều không nói nên lời khi thấy nhau ốm
yếu như que tăm, một người trong nhà tù nhỏ còn người kia trong tù lớn
rộng ra cả nước. 15 phút trôi qua thật nhanh, biết bao tâm tình muốn nói
mà cả hai không thể thốt nên lời, cuối cùng tôi gắng gượng bảo: “Mình
cố ráng săn sóc gia đình thay anh, còn anh thì không cần đi thăm nuôi
nữa đâu nghen”.
Tôi lủi thủi trở vào bên trong dẫy trại giam,
không dám quay lại nhìn vợ con đang giọt ngắn giọt dài. Tưởng là về để
giúp đỡ vợ con, ai ngờ mình lại trở nên gánh nặng cho cả gia đình.
Xuân
qua hè tới, thấm thoát mà đã hơn sáu năm trời mang thân tù tội, nhìn
những hàng cây xoài, cây nhãn do chính tay mình trồng đã đâm hoa kết
trái, mà mình vẫn còn ở nơi đây chúng tôi càng hối hận. Nhưng cuối cùng
đến giữa năm 81 thì họ thả tôi ra. Tôi phải mất ba bốn ngày trời
mới từ miền Trung lần mò về đến quê nhà. Những người tài xế xe đò,
những người buôn gánh bán bưng, bà già bán cơm... khi biết tôi là tù
được tha đều tỏ lòng quí mến mà giúp đỡ trên quãng đường qui hồi cố
hương. Lòng tôi nao nao. À thì ra lòng con người VN vẫn còn đây chứ
không phải đã bị nhuộm màu đỏ hết.
Dọc đường về, nhìn đâu cũng
thấy cảnh u ám, người người đói khát, da mặt ai cũng đen đúa xấu xí. Từ
đường lộ về đến nhà gần ba cây số, tôi tự hỏi sao hàng cây xanh tươi
ngày xưa bây giờ lại xơ xác quạnh hiu, không còn sinh khí như vậy.
Đến
nhà, con chó vàng xồ ra sủa rồi vẫy đuôi mừng rỡ. Cha tôi lọm khọm
buông gậy mà chạy ra đón con. Vợ và 2 đứa nhỏ tíu tít quấn quít mà sao
căn nhà coi bộ vắng vẻ hơn xưa nhiều quá. Thì ra các em tôi đã lần lượt
theo nhau vượt biên hết rồi. Bà con xóm ngõ cũng đang tiếp tục âm thầm
ra đi mỗi ngày một nhiều.
Tôi thẩn thơ ra vào trong căn nhà vắng
hẳn tiếng cười, lo lắng như con chim đã một lần bị tên, thấy cành cây
cong cũng sợ, nên dù có nhiều người đề nghị đi vượt biên lắm mà tôi chưa
biết tính sao. Tôi đã một lần quyết định sai lầm, lần này nếu ra đi mà
bị bắt thì chắc là ở tù lâu lắm.
Rồi tôi cũng phải ra đi mà thôi,
nhưng phải mất đến 6 năm sau, với bao lần thất bại vì bể bãi, rồi cả gia
đình tôi mới đến được bến bờ tự do.
No comments:
Post a Comment