MAI PHÚC
Nói về cuộc sống ở Mỹ
của những người Việt Tỵ Nạn mà không nhắc đến những cuộc hành trình
gian nguy của họ để rời nơi cố hương thì quả là một thiếu sót? Riêng với
tôi, chuyến vượt biên đẫm máu tôi đã từng trải qua sẽ còn mãi ám ảnh
tôi cho đến hết những ngày tháng còn lại của mình.
Đó
là lần đầu tiên tôi được đặt chân xuống tàu để mong rời khỏi quê hương
đầy hận thù ! Đó là những ngày cuối năm, sau khi được người thân ở Mỹ
gửi về cho ít tiền viện trợ, má tôi đã lo cho tôi đi vượt biên... Người
ta dặn má tôi về nói tôi hãy chờ, khi họ cho người xuống kêu là đi ngay.
Ngày ngày, tôi vẫn đi rừng đốn cây như thường lệ trong khi chờ đợi
những thay đổi quan trọng sắp đến cho mình.
Đúng như
tôi đã lường trước, khi đứa em trai út vào rừng báo cho tôi biết chuyến
đi lúc trời đã tối hẳn rồi, đám thợ rừng chúng tôi vừa dựng được cái sàn
gỗ mới cưa xong để chuẩn bị làm chỗ ngủ. Tôi vội vàng vừa đi vừa chạy
về nhà với đủ thứ âu lo hồi hộp. Sáng sớm hôm sau, tôi đón chuyến xe đò
đầu tiên chạy về Saigon, để rồi từ đó đón xe đi Bà Rịa.
Nhớ
lời dặn, để tránh sự theo dõi của du kích và công an, tôi đã thận trọng
xuống xe ở cách địa điểm "tập kết" của chuyến đi chừng một cây số để đi
bộ đến đó. Đêm đầu tiên tôi ngủ trong nhà bà chị cùng đi trong chuyến
vượt biên đó, rồi đêm sau tôi được chuyển tới địa điểm ẩn náu khác mà
dân ở đó gọi là "nơi nhốt gà". Phía trước nơi này cũng chỉ là một mái
nhà tranh bình thường như mọi ngôi nhà khác, nhưng phía sau có một gian
nhà tranh khác được dựng tường kín đáo hơn.
Đi theo
người dẫn đường vào bên trong, tôi thấy đã có hơn 50 người khác đang chờ
đợi chuyến đi như tôi. Đến đây, tôi bắt đầu sống giữa những tiếng thì
thầm, những lời bàn luận; cùng những hy vọng và âu lo do từ những bàn
luận của họ. Ngày hôm sau, tôi có dịp làm quen và chia sẻ những quá khứ
điêu linh cùng những kinh nghiệm vượt biên và tù đày của họ.
Chúng
tôi được chủ nhà cho ăn trưa và ăn tối tại chỗ. Ngay sau bữa tối, họ
dắt từng tốp đi ra ngõ sau vườn rồi băng qua những đám ruộng hoang cỏ
mọc lộn xọn để đến "bãi"! Trời tối đen như mực nên chúng tôi phải đi sát
vào nhau cho khỏi bị lạc và để cho đỡ sợ. Không phải chúng tôi sợ bóng
tối mà là sợ những bất trắc bị VC phát giác trên đường đi ra bãi.
Vì
là dân rừng, tôi đã giúp nhiều người vượt qua các khe suối, những vũng
lầy; và dần dần tôi vượt qua hầu hết đoàn người để nhập vào toán dẫn
đầu. Khi người ta đi chậm dần và đứng lại, tôi nhìn thấy đám người vượt
biên đến "tập kết" ở bãi đông như cái sân nhà thờ vào ngày lễ chủ nhật,
lúc đó tôi có thể thấy lập lờ chiếc tàu vượt biên của chúng tôi đang
chập chờn dưới bóng đêm ở ngay con lạch trước mặt.
Thành
tàu khá cao nên nhiều người không tự leo lên nổi; tuy nhiên khi tới
phiên tôi, chỉ cần vươn hai tay đu lên thành tàu và búng mạnh hai chân
một cái là cả thân hình tôi đã hoàn toàn ở trên boong tàu rồi. Vừa lên
tới đó, tôi đã bị người ta lùa ngay xuống hầm tàu.
Cửa
hầm tàu là một lỗ vuông tối om nằm ở phía gần mũi tàu, chỉ vừa một người
chui xuống. Đúng ra đó chỉ là cái ham đựng cá. Bên ngoài dù trời tối
nhưng tôi còn có thể nhìn thấy những người gần mình; trái lại sau khi bị
dồn xuống hầm cá, hoàn toàn không nhìn thấy gì nữa, ngoại trừ cái ô
vuông ở miệng hầm. Tôi không thể biết cái hình dáng hay kích thước phía
trong của nó như thế nào, mà chỉ cảm giác được chỗ ngồi bằng 2 tay của
mình thôi! Họ lùa người xuống sau dồn người xuống trước tiến sâu hơn nữa
vào phía cuối hầm tàu, vừa đi vừa mò mẫm. Tôi bắt đầu cảm thấy lo sợ,
lỡ tàu chìm thì làm sao mình thoát ra ngoài được đây? Vì thế tôi chùn
bước không dám tiến sâu vào hướng tối đó, mà nép người sang một bên ở
gần ô vuông cửa hầm, nhường chỗ cho những người xuống sau theo nhau mà
bước sâu vào phía trong. Không nhìn thấy gì nữa; nhưng qua cảm giác với
những tiếng nói và tiếng động sột soạt, tôi biết là người ta đang lũ
lượt nhảy xuống! Những âm thanh đó kéo dài chừng gần một tiếng, có lẽ
mọi người đã được dồn hết vào "chiếc quan tài" trôi nổi đó rồi thì có
giọng ra lệnh cho tàu nổ máy chạy. Khi tàu vừa chạy, lại có giọng nói
lớn "bây giờ anh em nào công giáo, mình đọc kinh đi"; và tàu vẫn cứ đều
đều chạy.
Tiếng kinh râm ran hòa nhịp với tiếng máy tàu
làm tâm hồn tôi cảm thấy yên ổn hơn một chút. Nhưng chợt có giọng nói
khác trên tàu ra lệnh "Tất cả im lặng. Gần đến trạm công an!" 1 Tiếng
máy lúc đó cũng trở lên nhẹ nhàng hơn, làm như nó đang thận trọng trước
những hiểm nguy đang rình chờ...
Có tiếng trẻ thơ khóc
trong tàu làm mọi người lo lắng; một vài tiếng người thì thầm phản đối.
Có tiếng nói "bóp mũi nó lại không cho nó khóc nữa!" Rồi bỗng có tiếng
ra lệnh "cho máy dzọt lẹ lên, chạy hết ga đi!"
Trong
khoảnh khắc sau đó, tôi nghe tiếng súng nổ; thế là rồi. Tôi phải ngồi
nghiến răng, ghì mạnh hai tay vào ván tàu đã nghe tiếng súng! Tàu đang
chạy hết tốc lực, có lúc tiếng súng xa dần để nhường chỗ cho những hy
vọng trở lại... Tiếng súng nghe xa, nhưng vẫn tiếp tục nổ. Căng thẳng!
Chúng tôi đặt hy vọng vào người tài công đang điều khiển chiếc tàu, và
dồn những hy vọng khác vào động cơ tàu để mong đẩy chiếc tàu vọt nhanh
hơn cho mau thoát khỏi chốn nguy nan!
Những giây phút
căng thẳng này là những khoảnh khắc tranh chấp giữa sống và chết, giữa
hạnh phúc và đau khổ, giữa may mắn và ngục tù; giữa đấu tranh chịu đựng
và những chọn lựa ! Đây chính là giai đoạn khó nhất mà chúng tôi phải
trải qua để tìm được tự do Hàng trăm người trên tàu, nhưng không ai dám
nói chuyện và cựa quậy; mọi người đều tập trung một ý nghĩ mong sao
chiếc tàu lướt nhanh hơn và êm hơn để thắng lươt những giờ phút nguy
kịch đó !
Đột nhiên, có những tiếng súng nổ chát chúa
gần bên tàu. Tôi cảm thấy chiếc tàu bẻ cua sang tay trái và chạy sượt
vào mé bờ. Có nhiều tiếng kêu trời ơi cứu tôi! Chiếc tàu chỉ lệch sang
một bên nhưng chưa chìm, nó gượng lại thăng bằng và tiếp tục chạy giữa
tiếng súng nổ liên hồi. Trong bóng tối, tôi nghiến răng ghì mạnh tay vào
ván tàu để nỗi lo sợ của mình không buột ra khỏi miệng, như một số
người khác. Có tiếng nói trong tàu bảo tài công ngừng lại, nhưng có
tiếng nói khác ra lệnh cứ tiếp tục chạy.
Đạn đã bắn
xuyên nhiều vào trong tàu, nhiều tiếng rên la bên trong nhưng lúc đó tôi
chỉ chú ý lắng nghe tiếng đạn bay xeo xéo sượt vào thành tàu! Rồi tôi
nghe tiếng chiếc tàu khác gạt vào mũi tàu tôi làm nó bị lệch hướng đâm
xập vào bờ! Con tàu chênh vênh một lần nữa tưởng như muốn bị lật úp;
Nhiều người giành nhau chui ra cái lỗ ô vuông cửa hầm tàu ngay phía gần
đầu tôi. Có khi hai ba người giành nhau chui ra một lúc làm cho những
người muốn thoát ra mất thì giờ hơn. Nhìn qua ô vuông đó, tôi thấy những
ánh đèn pha sáng chói bên ngoài.
Tôi không giành chui
ra với họ là vì còn nuối tiếc chiếc tàu. Đến khi trống trải không còn ai
dám chui ra nữa thì tôi lại lo sợ, tại sao mình lại ngồi trong đó để
cho tàu chìm mà chờ chết ; và tôi liền quyết định chui lên!
Vừa
chui lên, tôi đã bị chói mất bởi ánh đèn pha từ phía chiếc tàu VC; Sau
này vào tù thì tôi mới biết được rằng đó chính là chiếc tàu của những
người tù chung với tôi, họ bị bắt trong chuyến vượt biên trước chúng
tôi. Công an VC đứng dàn hàng ngang trên boong tàu đó, họ đang nhắm bắn
từng người đang bơi dưới con lạch nhỏ như những thợ săn nhắm bắn những
chiếc gáo dừa đang trôi lềnh bềnh dưới nước!
Vừa chui
từ dưới hầm cá lên khỏi cái lỗ ô vuông, tôi giơ hai tay lên đầu hàng.
Một tên công an nó hỏi tôi hai, ba câu; sau đó chúng chú ý nhắm bắn
những "chiếc gáo dừa" kia, nên đột nhiên tôi quyết định nhảy trở lại
xuống hầm tàu! Sáng hôm sau, ngay chỗ cửa hầm tàu là xác chết của một
đứa cháu họ của tôi, nó bị bắn bể thái dương và rớt trở lại xuống dưới!
Sau
khi hoàn toàn làm chủ tình hình, không còn ai dám nhảy xuống nước bỏ
trốn nữa, công an VC vẫn để những đèn pha chỉa vào chung quanh chiếc tàu
và cho phép một số chúng tôi leo lên boong nằm đợi lệnh. Nằm trên boong
và dưới ánh neon pha, tôi nhìn thấy xác chết của người thợ máy chiếc
tàu chúng tôi nổi lềnh bềnh cạnh đó. Suốt đêm, lẫn trong tiếng vi vu của
gió biển là những tiếng rên la não nề của những người bị thương nằm
dưới hầm tàu.
Đến sáng thì những người ba con của tôi
đi kiểm điểm người thân trên tàu, thấy mất một số, có thể họ đã nhảy
xuống nước bơi và trốn được rồi. Nhưng lại có người không biết bơi mà
tìm mãi vẫn không thấy họ; Có người cho biết ở cái sàn phía sau máy tàu
có ba, bốn người bị bắn chết nằm chồng lên nhau. Tôi vội vã ra đó kiểm
chứng kỹ xem có người thân nào của tôi không.
Lần này
tôi mới chú ý nhìn mặt những xác chết, ....đúng rồi, nó chết rồi! Nó bị
bắn vỡ một góc đầu ở tư thế nửa nằm nửa ngồi, dựa lên xác của một thanh
niên khác cũng bị trúng đạn ngay tai. Còn một xác chết nữa ngay cạnh đó
bị bắn trong tư thế quỳ chổng mông lên trời trông như một trái núi, đầu
cúi khom xuống sát sàn gỗ, có lẽ để núp đạn; nhưng tôi cũng thấy một
đường máu khô trên sàn tàu chảy ra từ phía đầu của nạn nhân. Cả ba xác
đó đều mở trợn trừng mắt... nhìn tôi? Thế là đã có hai người thân của
tôi chết trong chuyến đi này! Còn hai xác khác bên trong tàu là một ông
già bị đạn bắn nát ngực, và xác đứa bé khóc lúc tàu chạy gần trạm công
an. Không biết nó bị người ta xô lấn hay bị bóp mũi cho chết lúc nó đang
khóc!
Mãi tới chừng 10 giờ sáng hôm sau, công an mới
đem một chiếc tàu khác đến chở những người bị thương đi. Có người trong
tàu đứng ra quyên tiền và vàng để đút cho công an. Sau khi mang số vàng
bạc sang nộp cho công an, mọi người đều hy vọng chờ đợi; nhưng chờ hoài
cũng chẳng có gì.
Mãi tới lúc chiều tối, có chiếc tàu
công an khác chạy tới, bọn chúng lùa tất cả mọi người lên tàu này chở
vào nhà tù. Một số người là thân nhân của những nạn nhân bị chết, bọn
công an "cho" ở lại để dọn xác những người chết xuống bãi, người ta hy
vọng sẽ được thả . Tôi ở trong nhóm khoảng 10 thanh niên được ở lại đó,
đến chiều gần tối mới có một tên công an cấp lớn hơn đến giải quyết với
chúng tôi. Đầu tiên hắn hăm dọa chúng tôi, dí họng súng K54 vào đầu từng
người để khám xét. Ông chú họ của tôi bị hắn hăm dọa dữ quá đã phải
chắp tay lạy hắn! Sau đó hắn ra lệnh chúng tôi phải khiêng các xác người
chết trên tàu xuống.
Hắn ra lệnh và bắt chúng tôi phải
làm thật nhanh. Tôi rất sợ xác chết và sợ máu nên đi sau cùng và phải
đứng dưới nước để đỡ những xác chết được chuyền xuống. Lúc này chiếc tàu
không còn người nữa nên nó nổi rất cao, tôi phải giơ thẳng hai tay lên
mới đỡ tới những xác chết chuyền trên boong xuống. Thấy tôi nhút nhát,
tên công an VC để ngón tay trỏ vào cò súng và dí mạnh họng súng K54 vào
gáy tôi bắt phải làm việc cho nhanh.
Khi những xác chết
được lần lượt chuyền xuống, máu và óc của những nạn nhân đó đã chảy đầy
xuống đầu, mặt và toàn thân tôi. Lúc đó tôi quên cả cảm giác với máu và
óc vì cái cảm giác lạnh và cứng của họng súng K54 sau gáy nó chi phối
hết nỗi sợ hãi của mình, không may tên VC đó lỡ tay thì trong khoảnh
khắc cái mạng của tôi cũng sẽ tương tự như các nạn nhân kia thôi! Sau
khi làm xong việc chuyển xác, tên công an bắt chúng tôi rửa sạch những
vết máu trên tàu. Rồi hắn đưa chúng tôi lên tàu nhỏ của hắn cho đồng bọn
chở về bãi Lam Sơn ở gần Bà Rịa. Vì tên công an VC này sợ chúng tôi
chạy trốn nên đã bắt chúng tôi di chuyển bằng cách bò từ đó qua xóm nhà
dân, qua chợ Lam Sơn ra tới đường lộ. Hắn dồn chúng tôi lên một xe lam
chở về nhập chung với nhóm người bị giải đi trước tại trạm Gò Dầu. Từ
đây, sau khi VC lột hết vàng bạc của mọi người, chúng dùng xe công an
chở thẳng chúng tôi vào trại giam B5 ở Biên Hòa. Giữa đêm hàng trăm
người chúng tôi đã bị nhét chung vào một chiếc phòng chỉ bằng phòng ngủ
master room của một gia đình ở Mỹ. Tôi đã phải ngồi khít giữa khối người
chen chúc và ngủ thiếp đi vì mệt mỏi và tuyệt vọng.
Sáng
hôm sau tới giờ làm việc bọn công an VC lại bắt đầu một màn điều tra,
khám xét nữa. Chúng hỏi cung, làm hồ sơ lý lịch, rồi từng người chúng
tôi phải cởi hết quần áo đưa cho chúng khám xét. Rồi lần lượt mỗi người
phải đi ngang chiếc bàn và hả miệng ra cho tên công an VC kiểm kê mấy
chiếc răng vàng hoặc “khâu” vàng nào giấu trong miệng? Phòng bên cạnh là
một công an khác chuyên "điều trị" lỗ đít. Từng người phải đến đó,
chổng đít lên gần mặt nó và banh lớn lỗ đít ra cho nó kiếm vàng bên
trong chỗ đó!
Sau đủ thứ thủ tục kỳ dị ấy, mọi đồ đạc
đều bị cướp hết. Mọi người được đưa vào một khu vực có tường dầy cao và
hàng rào kẽm gai phía trên, cùng những chòi canh trên cao ở bốn góc. Vào
trong khu này tôi nghe thấy tiếng rì rào như những đàn ong đang bay.
Đến khi được đưa lại gần các căn phòng phát ra những âm thanh đó thì mới
biết đó là nơi cư trú mới của tôi. Từng phòng nhìn vào tối om, có cánh
cửa sắt và hàng chấn song sắt lớn. Nhìn mãi tôi mới nhận ra một số người
ở trần, mặc xà lỏn và đầu trọc lóc đang đứng gần song sắt nhìn chúng
tôi, trông họ ốm nhom như lũ khỉ.
Khoảng 5 phút sau,
tên quản giáo đến mở khóa đưa chúng tôi vào nơi cư trú mới, nhập bọn với
"lũ khỉ" bên trong! Vì quá tối nên phải đứng chớp mắt một lúc tôi mới
nhìn rõ hết được căn phòng. Cả một xã hội mới, chẳng bao lâu chính tôi
cũng trở nên y hệt "lũ khỉ" đó; nhưng sau một thời gian tôi cảm thấy cái
xã hội trong đó còn có tình nghĩa hơn xã hội bên ngoài ma tôi đã sống!
Nhiều năm đã qua. Sau cùng, tôi cũng đã tới được xứ sở tự do, nhưng mãi mãi, chuyến vượt biên đẫm máu ấy còn ám ảnh tôi.
Như
đã nói, nhiều vị có nói là phải quên quá khứ. Riêng tôi, quá khứ của
tôi tuy không đẹp nhưng tôi không có gì mặc cảm với những gì tôi đã kinh
qua. Nó là những bài học quý giá cho chính tôi về con người và nhất là
về xã hội nơi cố hương tôi đã từng sống.
Quá khứ đó
cũng là những kinh nghiệm xương máu, mồ hôi và nước mắt; và bằng chính
mạng sống của những nạn nhân đã cùng cảnh ngộ như chúng tôi khi còn ở
đó. Những hy sinh của họ đã xúc động lương tâm thế giới để chúng ta được
cơ hội đến đây tỵ nạn và xây dựng cuộc sống mới hôm nay... Cuộc sống
của chúng ta hôm nay, há chẳng phải được xây dựng trên nền tảng quá khứ
thương đau đó sao?
No comments:
Post a Comment