Cho đến khi nằm xuống, nhạc sĩ Anh Bằng vẫn còn những bài hát và dự án
còn dang dở. Sức làm việc của ông thật đáng nể. Nhiều tổng kết cho rằng
số lượng tác phẩm của ông để lại khoảng 650 bài, nhưng thực tế còn
nhiều hơn như vậy, bởi gần mười năm đau yếu, ông vẫn không thôi sáng
tác.
Nhạc sĩ Anh Bằng (1926-2015) viết rất nhiều thể loại, có lẽ vì vậy mà
ông cũng là nhạc sĩ hiếm hoi trong lịch sử âm nhạc Việt Nam có rất nhiều
bút danh. Bản tính hào sảng của ông cũng khiến cho gia tài âm nhạc của
ông càng đồ sộ hơn, với hàng loạt các ca khúc sáng tác chung với nhạc sĩ
Lê Dinh và Minh Kỳ – với tên chung là Lê Minh Bằng.
Năm
1975, khi nhạc sĩ Anh Bằng ra đi định cư ở Hoa Kỳ, dù lúc đó đã bước
sang tuổi 50, nhưng ông vẫn sung sức trong sáng tác và đầy hoài bão
trong việc dựng lại một cộng đồng sinh hoạt âm nhạc Việt ở xứ người.
Công việc này lại suôn sẻ hơn, khi bà Thy Vân, con gái của ông Anh Bằng
kết duyên với ông Bạch Đông, một người Việt ở Mỹ, một chuyên gia về âm
thanh. Năm 1980, băng casette đầu tiên của Trung tâm Asia ra đời với các
tác phẩm của Anh Bằng đã là một sự kiện của cộng đồng Việt Nam hải
ngoại, vượt biên giới lan vào tận trong nước.
Trung tâm âm nhạc Asia dần dà trở thành một trong những chỗ dựa tinh
thần quan trọng của người Việt xa quê hương. Với khuynh hướng thuần âm
nhạc Việt Nam của nhạc sĩ Anh Bằng nhưng phát triển theo khuynh hướng
công nghệ giải trí của Hollywood do ông Bạch Đông dẫn dắt, khiến Trung
tâm Asia nhanh chóng trở thành một cái tên thân quen của các cộng đồng
Việt không chỉ ở Mỹ mà còn ở Châu Âu, Úc… Vào thời điểm rực rỡ nhất của
Asia, ít ai biết được rằng các tên tuổi của âm nhạc Mỹ cũng có mối quan
hệ với trung tâm này, thông qua giám đốc điều hành là Bạch Đông. Thân
thiết nhất, phải kể đến Richard Carpenter, ca sĩ – nhạc sĩ, và là người
sáng lập nhóm Carpenter.
Một trong những sản phẩm được tuyển chọn bởi nhạc sĩ Anh Bằng, thành
công đến mức bất ngờ – đến nay vẫn còn nghe lưu hành ở Việt Nam, là băng
cassette Liên khúc Hoà tấu. Vào thập niên 80, ông Bạch Đông cho biết có
đến hơn 200.000 băng cassette được phát hành và tạo một thành công đủ
để mở đường cho sự lớn mạnh của Trung tâm Asia sau này. Tính đến hôm
nay, kể cả cd và các bản chép không bản quyền, album này có thể đã vượt
con số hàng triệu.
Giữa cuối thập niên 90, ông Bạch Đông rời Trung tâm Asia và chuyển sang
sống, làm việc ở Thái Lan. Công việc được giao lại cho nhạc sĩ Trúc Hồ.
Lúc này ông Anh Bằng cũng bắt đầu cũng vào giai đoạn sức khoẻ không được
tốt, nên công việc chính do bà Thy Vân hoàn toàn kiểm soát. Tuy vậy
khuynh hướng của trung tâm Asia vẫn là tâm nguyện của nhạc sĩ Anh Bằng:
giữ gìn và phát triển dòng nhạc của miền Nam tự do trước năm 1975.
Đất Nga Sơn, Thanh Hoá thật sự kiêu hãnh với hai cái tên lớn trong văn
học nghệ thuật Việt Nam: đó là nhà thơ Hữu Loan và nhạc sĩ Anh Bằng. Hữu
Loan lớn hơn nhạc sĩ Anh Bằng 10 tuổi, nhưng cuộc đời của hai con người
tài hoa này lại có nhiều nét tương đồng đến ngạc nhiên.
Trong nửa thế kỷ, cả hai nhân vật tài hoa của Nga Sơn đã làm nên những
huyền thoại cho riêng mình. Một người vạc tan đá núi tạc thành huyền
thoại, một người viết nên những khúc ca, chồng chất nỗi buồn cao như
núi.
Hai lần ra đi của nhạc sĩ Anh Bằng là hai chặng thời gian đầy biến cố
của người Việt Nam. Bị cuốn vào thời cuộc và chìm trong mệnh nước nổi
trôi, âm nhạc của ông cũng ngập trong nỗi buồn của riêng mình, của đời
người.
Một trong những bài hát, có thể nói được hết cõi lòng của nhạc sĩ Anh
Bằng, có lẽ là bài Cõi Buồn, phổ thơ của nhà thơ Phong Vũ. Nỗi tiếc nhớ
bạn bè, tuổi thanh xuân và mọi ước nguyện còn dang dở đã dẫn đến cao
trào với phần điệp khúc như niềm tuyệt vọng “Ta muốn kéo mặt trời lặn
đàng Đông mọc đàng Tây. Ta muốn giam thời gian trong khám tù đày…”. Bất
kỳ ai, lúc này khi hát lên, cũng có thể cảm nhận hết sự cô đơn và muộn
phiền của ông.
Giới âm nhạc chuyên nghiệp hay gọi tên nhạc sĩ Phạm Duy, Hoàng Thi Thơ,
Anh Bằng, Lam Phương là tứ trụ của nền âm nhạc miền Nam Việt Nam. Tài
năng, sự đa dạng về phong cách, nhạc thuật, tính khai phá… của những con
người này dàn trãi gần như toàn bộ trên lịch sử âm nhạc miền Nam Việt
Nam từ 1954-1975 và vẫn tiếp tục nối dài từ đó đến nay.
Nhạc sĩ Phạm Duy có bài Bà mẹ Gio Linh (1948) thì nối tiếp với tinh thần
đó, nhạc sĩ Anh Bằng cũng có bài Chuyện Một Đêm (1968). Cả hai hai bài
hát này vang vọng nỗi đau của người mẹ trong chiến tranh, khi đứng trước
cái chết của con mình. Đi cùng với chính sử Việt Nam hiện đại, các tác
phẩm này là một trong những phần bổ sung và thể hiện rõ nhất tâm tình,
số phận con người Việt qua nội chiến, bên cạnh tập Ca khúc Da Vàng của
Trịnh Công Sơn.
Đầu năm 2013, nhạc sĩ Anh Bằng gọi nhạc sĩ Việt Dzũng đến để bàn bạc
việc ông muốn thực hiện một băng nhạc tranh đấu. Việc Trung Quốc cấm cản
đường biển, tấn công ngư dân Việt, bức hại quê hương… khiến ông cũng
muốn hành động. Cho nhạc sĩ Việt Dzũng nghe bài Giặc đến nhà, nhạc sĩ
Anh Bằng nói rằng có thể ông sẽ không còn làm gì được nữa và muốn thực
hiện một album như phần để lại, một di nguyện của một người yêu thương
đất nước mình, dân tộc mình. Lúc đó, chân ông đã run, mắt ông đã mờ, tai
ông không còn nghe rõ, có những cuộc trò chuyện phải viết ra trên giấy,
nhưng ông nói mình đã viết nhiều bài hát tranh đấu như vậy. Tiếc thay,
tháng 12/2013, nhạc sĩ Việt Dzũng qua đời, công việc còn đang dang dở
cùng với lúc sức khoẻ của nhạc sĩ Anh Bằng ngày càng yếu hơn.
Như những bài hát đã viết, mang đầy lời hẹn và tiếc nhớ của mình, giấc
mơ về lại quê hương của một người Việt tha hương mãi mãi còn dang dở,
nhưng cuộc đời của ông thì lại quá đỗi trọn vẹn cho thế gian này, khi
không ngừng cống hiến cho âm nhạc, cho con người Việt Nam. Khó mà biết
được, ông ra đi thanh thản, hay ở cõi xa xôi nào đó, vẫn mơ về từng
chiếc ghế đá, từng góc công viên, về những món nợ ân tình mà cuộc đẩy
đưa khiến ông không bao giờ còn cơ hội để đáp đền.
Tuấn Khanh
(Blog Tuấn Khanh)
No comments:
Post a Comment